Thứ Hai, 16 tháng 3, 2020

QUÁ SƠN BẢNG VĂN

ĐỂ CHO MỌI NGƯỜI DAO CÙNG BIẾT
QUÁ SƠN BẢNG
Người Dao đối lại người Việt
Người Dao đối lại người Việt
By Le Minh Khai
Người dịch: Hoa Quốc Văn
Vậy là người Yao (hay Dao trong tiếng Việt) vẫn lưu giữ một câu chuyện về bản thân họ, câu chuyện này họ lấy từ các nguồn tư liệu Trung Hoa cổ xưa. Câu chuyện này khẳng định rằng họ là hậu duệ của một nhân-cẩu có tên là Panhu (Bàn Hồ) và được ghi chép trong những văn bản được đặt tên hoặc là “Quy định của Hoàng đế Bình” (Bình hoàng khoán điệp 評皇券牒) hoặc là “Giấy phép để qua các ngọn núi” (Quá sơn bảng 過山榜).
Trong bài viết trước tôi đã chỉ ra rằng có những sự tương đồng giữa cấu trúc của câu chuyện này với cấu trúc của Hồng Bàng thị truyện. Trong khi hai câu chuyện này giống nhau ở chỗ chúng đều được kiến tạo từ những thông tin trong các văn bản hiện tồn [lúc bấy giờ] và cả hai đều có chung một tuyến truyện, thì cái cách mà hai câu chuyện này đã được đọc trên phương diện lịch sử về quá khứ cách đây ít thế kỉ là rất khác nhau.
Bình hoàng khoán điệp và Quá sơn bảng được ghi chép trên những cuộn giấy dài trong đó cũng bao gồm những bức hoạ về các nhân vật được đề cập trong câu chuyện và những vết tích của cái được tuyên bố là ấn triện của hoàng đế.
Những bức hoạ về các nhân vật giống hệt những hình ảnh mà chúng ta thấy trong các hình hoạ của Đạo giáo. Điều này không có gì ngạc nhiên khi chúng ta biết rằng người Dao đã kế thừa những tín ngưỡng và nghi lễ của Đạo giáo. Vì vậy, trong cuốn sách về người Dao và Đạo giáo của mình (A History of Daoism and the Yao People of South China [Lịch sử về Đạo giáo và người Dao ở Nam Trung Hoa]), Eli Albert đã cho rằng, những văn bản của người Dao này dường như đóng vai trò như những đối tượng mang tính nghi lễ vậy.
yao-image1
Đặc biệt hơn, điều mà Albert và các học giả khác khẳng định là: những văn bản này có vẻ được trình bày trong nhiều lễ tiết khác nhau để cho người dân (không biết chữ) xem.
Trong khi đó, nhà nhân chủng học Peter Kandre đã tìm thấy ở thập kỉ 1970s hiện tượng câu chuyện về “hậu duệ của Bàn Hồ” được “hát” với tư cách một phần của hôn lễ trong những cộng đồng người Dao ở miền Bắc Thái Lan lúc bấy giờ. Ông cũng ghi lại thông tin về các lễ hội phức tạp dành cho Hoàng đế Bình (vị hoàng đế đã gả con gái cho Bàn Hồ) trong đó bao gồm cả việc hiền tế một con lợn để vinh danh hoàng đế,v.v..
Những tài liệu Dao này vì vậy hết sức “sống động”. Chúng được “diễn xướng” trong các nghi lễ có ý nghĩa sống còn với các cộng đồng người Dao ở bất cứ nơi đâu họ đến.
Trái lại, văn bản chứa Hồng Bàng thị truyện là Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, có vẻ không hề được “đọc” bằng bất kì phương thức nào tương tự như thế.
Vì vậy làm thế nào chúng ta có thể giải thích một thực tế là những văn bản này vốn giống nhau ở sự kiến tạo và nội dung nhưng được đọc bằng những cách thức khác nhau như thế trong các xã hội tương ứng của chúng. Tại sao câu chuyện về Bàn Hồ là một nhân tố “sống động” của văn hoá Dao bất kể họ sống ở đâu, trong khi Hồng Bàng thị truyện không có vẻ như đóng một vai trò như thế trong [xã hội] người Việt. Điều này nói gì với chúng ta về hai xã hội và về lịch sử được cho là cổ xưa của họ?
Tôi chưa bao giờ thấy ai so sánh người Dao với người Việt, nhưng ai đó nên làm điều này.
Người Yao (hay Dao trong tiếng Việt) là một nhóm người sống ở vùng núi ở một khu vực từ Hồ Nam đến Tây Bắc Việt Nam. Cũng như người Việt, người Dao kiến tạo cho mình một lịch sử khá sớm dựa trên những tư liệu được ghi chép lần đầu bởi các tác giả Trung Hoa. Người Dao ghi chép những thông tin này trong các văn bản được biết lần lượt là “Quy định của Hoàng đế Bình” (Bình hoàng khoán điệp 評皇券牒) hoặc “Giấy phép để qua các ngọn núi” (Quá sơn bảng 過山榜).
charter4
Thông tin trong những văn bản này khẳng định rằng người Dao là hậu duệ của một ông tổ nhân cẩu có tên là Panhu (Bàn Hồ 槃瓠). Người Dao không sáng tạo ra câu chuyện này. Thay vào đó, các tác giả Trung Hoa đã tạo ra, và chúng ta có thể thấy một phiên bản của câu chuyện này trong sách Hậu Hán thư 後漢書của Phạm Việp. Trong công trình này, Phạm Việp đã kể một câu chuyện trong đó ông ta nói rằng tất cả những người “man phương Nam” (Nam man 南蠻) là hậu duệ của Bàn Hồ.
Trong câu chuyện này, Bàn Hồ là một [nhân vật nửa người nửa] chó, đã giúp đỡ Đế Cốc của tộc Cao Tân (Cao Tân thị) bằng cách giết chết địch thủ của Đế Cốc. Rồi Đế Cốc gả con gái của mình cho Bàn Hồ. Đế Cốc sau đó hối hận và cố gắng đưa con gái trở về, nhưng việc làm của ông đã bị ngăn cản bởi thời tiết xấu xuất hiện một cách thần diệu.
Vợ Bàn Hồ sinh ra 6 đứa con trai và 6 đứa con gái. Chúng lấy nhau và sinh con, và số người [trong gia đình này] tăng lên. Những người này sau đó sống ở những ngọn núi và tự cai quản [vùng đất của mình].
Sách Hậu Hán thư sau đó nói thế này về sự tổ chức xã hội của họ: “Có những tù trưởng, tất cả họ đều nhận được ấn tín và các dây thao của hoàng đế dành cho lễ tấn phong. Họ đội mũ làm bằng da rái cá. Họ gọi tù trưởng của họ là Tinh phu 精夫, và gọi nhau là Áng đồ 姎徒”.
Câu chuyện này được viết bởi Phạm Việp ở thế kỉ V về các tộc “Nam man”, nhưng gần 1000 năm sau, người Dao mới dùng câu chuyện này để nói về họ. Sự khác biệt duy nhất là: họ thay đổi tên vị hoàng đế từ Đế Cốc thành Đế Bình, một hoàng đế mà họ sáng tạo ra.
Đối với bất kì ai đã đọc Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, những sự tương đồng nhất định ở đây hẳn là rõ ràng. Trong câu chuyện của người Dao, một hoàng đế Trung Hoa đã gả cháu gái cho một nhân cẩu, trong khi, trong Hồng Bàng thị truyện ở Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, người vợ của một hoàng đế Trung Hoa đã bị bắt đi bởi một Long quân.
Trong cả hai trường hợp này, lần lượt các vị hoàng đế [Trung Hoa] đã đối mặt với sự cản trở siêu nhiên khi họ cố giành lại những người phụ nữ ấy. Trong các cuộc hôn nhân mới của mình, cả hai người phụ nữ ấy đều sinh nhiều con và những người con được chia đều thành 2 nhóm.
Cuối cùng, trong cả hai truyện này, những khái niệm “bản địa” đã được sử dụng cho tên của những chức quan. Lĩnh Nam chích quái liệt truyện khẳng định rằng “[Vua Hùng] đã chia nhóm các anh em trai [50 người theo mẹ và 50 người theo cha] để cai trị [vùng đất này]. Ông đã đặt các thuộc cấp là những quan văn và tướng lĩnh. Quan văn được gọi là Lạc hầu. Quan võ được gọi là Lạc tướng. Hoàng tử được gọi là Quan lang, và con gái [vua] được gọi là Mỵ nương. Các quan lại được gọi là Bồ chính”.
Thật thú vị ở cái cách Lĩnh Nam chích quái đã phản chiếu câu chuyện sớm hơn về Bàn Hồ và hậu duệ của ông.
[Về một bản dịch câu chuyện của Bàn Hồ khi nó xuất hiện trong sách Hậu Hán thư, xem trang 5-6 của công trình này]