Thứ Ba, 17 tháng 11, 2020

CHIẾC KÈN LÁ CỦA NGƯỜI DAO THANH Y BỊ QUÊN LÃNG

Dân tộc dao thanh y là một trong những nhánh nhỏ của người dao, tập trung nhiều ở tỉnh quảng ninh và một số tỉnh vùng đông bắc nước ta thuộc phương ngữ mùn và phân chia thành hai nhóm chính khác nhau như: dao thanh y quần đùi, dao thanh y quần dài. đối với dao thanh y quần đùi còn được phân chia ra thành hay nhánh riêng là dao thanh y vấn tóc và dao thanh y không vấn tóc, nhưng nhìn chung tập quán sinh hoạt và bản sắc không có nhiều sự khác biệt.



                                               Hình Ảnh: kèn lá của Người Dao Thanh y Lạng Sơn

Nhắc đến Dân Tộc Dao Thanh Y hầu như chúng ta đều có thể thấy một nhánh người dao có bộ trang phục ít thêu hoa văn thổ cẩm nhất trong tất cả các nhánh người dao và đồng thời cũng là một nhánh người dao rất ít khi thấy các nhạc cụ dân tộc xuất hiện trong ngày cưới.
Tuy nhiên bên cạnh đó người dao thanh y cũng từng có một loại nhạc cụ được sử dụng nhiều trong quá khứ mà ngày nay hầu như thế hệ trẻ bây giờ không còn nhiều người biết đến, đó là chiếc kèn lá hay còn gọi là kèn tre.

Cấu Tạo: Kèn lá của người dao thanh y được làm từ một đoạn tre nữa dài khoảng 25cm - 30cm. Một đầu được cuốn chặt bằng lá giữ rừng, lá mía, lá cây bông lau hoặc từ nhiều loại lá khác nhau để cuốn thành hình chiếc loa ( giống kèn pí lè của người dao thanh phán, dao lù gang...). Ở phần đầu của chiếc kèn được gọt mỏng và dùng dao sắt cắt để tạo ra một đoạn lưỡi kèn để khi thổi có thể tạo ra âm thanh và phần đuôi của chiếc kèn được khoét một lỗ nhỏ để tạo vần nhịp như tiếng sáo.

Âm Thanh Của Kèn: Đối với chiếc kèn lá của người dao thanh y chỉ có thể tạo ra 2 giai điệu chính và rất khó để có thể tạo ra các giai điệu để thể hiện theo tâm trạng của người thổi. Tuy nhiên để có thể thổi được chiếc kèn này cũng phải cần đòi hỏi sự khéo léo ngay từ bàn tay của người làm ra chiếc kèn đến người thổi.

Cách Chọn Tre Để Làm Kèn: để có một chiếc kèn lá như ý thì cần phải chọn một đoạn tre già và phải là tre tươi dài khoảng 25cm - 30cm, lỗ của đoạn tre càng tròn và rộng thì âm thanh phát ra càng âm và đạt được âm thanh như ý, đặc biệt là đoạn tre không bị sâu ăn hay bị đục lỗ.
                                            Hình Ảnh: kèn lá của Người Dao Thanh y Lạng Sơn

Trong đời sống xưa kia khi chưa có các thiết bị điện tử như ngày nay thì việc bắt gặp một đứa trẻ chăn trâu thổi kèn lá ( kèn tre ) cho đến các cặp đôi thổi kèn để thể hiện sự khéo léo của bản thân không hề hiếm.
Tuy nhiên ngày nay nhắc đến chiếc kèn này hầu như phần đa số lớp trẻ không còn để ý đến và gần như không biết đó là một loại nhạc cụ "huyền thoại" của dân tộc dao thanh y.
nhìn sơ qua có thể thấy chiếc kèn này có hình dạng giống kèn Pí Lè của các nhóm dao khác.

Nguyên Nhân Kèn Ít Khi Được Thấy: Mặc dù đây là một chiếc kèn "huyền thoại" của người dao thanh y đã từng một thời xuất hiện và được sử như một loại đồ chơi không thể thiếu nhưng với chiếc kèn này người dao thanh y quan niệm rằng nếu thổi chiếc kèn này không đúng mùa thì có thể làm ảnh hưởng đến mùa màng của cả gia đình trong một năm vì âm thanh của kèn khi được thổi lên nó sẽ hút cái hồn của cây lúa và dẫn đến việc mất mùa trong năm đó, ở miền bắc thường được chia ra làm hai mùa lúa chính là mùa chiêm và mùa vụ, nhưng người dao hay làm một loại lúa được trồng trên nương và một năm chỉ có thể trồng một lần từ tháng 4 tháng 5 âm lịch đến tháng 9 âm lịch sẽ được thu hoạch.
Chính vì vậy người dân tộc dao thanh y chỉ thổi chiếc kèn này từ tháng 9 đến giữa tháng 12 âm lịch khi cả làng đã thu hoạch xong.

BÀI VIẾT HÌNH ẢNH: THÀNH LƯƠNG

Chủ Nhật, 25 tháng 10, 2020

TRANG PHỤC DAO THANH Y - LẠNG SƠN

  Trang phục là một trong những yếu tố quan trọng cấu tạo nên tổng thể văn hóa tộc người và là dấu hiệu ban đầu để nhận biết các dân tộc, vừa phản ánh được nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và tính đa dạng, đặc sắc của từng cộng đồng dân cư. Với người Dao, trang phục không rực rỡ nhưng nhã nhặn, tinh tế và ẩn chứa nhiều giá trị đặc sắc.

  Tỉnh Lạng Sơn là một tỉnh nằm ở khu vực Đông Bắc nơi đây có nhiều anh em dân tộc sinh sống, đặc biệt với nhóm người dân tộc Dao Thanh Y ước tính đến 2020 nhóm người Dao Thanh Y chưa vượt ngưỡng 2,000 nhân khẩu và tập trung ở 2 xã Bắc Lãng và xã Châu Sơn của huyện Đình Lậ.  từ những năm 12/1978 huyện Đình Lập được xác nhập vào tỉnh Lạng Sơn từ đó nhóm người dân tộc Dao Thanh Y có mặt địa bàn trên tỉnh Lạng Sơn

  Về trang phục, so với các dân tộc khác thì dân tộc Dao được coi là còn giữ được nhiều nét bản sắc của mình, ngày xưa chất liệu bằng vải bông nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím than hoặc để trắng, nhưng trải qua nhiều năm biến động lịch sử người Dao Thanh Y Lạng Sơn đã sử dụng các chất liệu vải hiện đại trong việc may mặc để bộ trang phục dế dàng sơn trong việc giặt đồ.

   Trang phục truyền thống của người Dao có nhiều nét độc đáo mang đậm dấu ấn thủ công và gắn bó chặt chẽ với đời sống của người dân. Để thêu được một bộ trang phục, không hề đơn giản một chút nào. Muốn thêu theo kiểu truyền thống phải có những sợi chỉ màu, Khó nhất khi thêu hoạ tiết trên áo, đó thường là hình sông núi, sóng nước… rất tinh tế và công phu. Trên mỗi hoạ tiết là cả một câu chuyện mà người thêu muốn gửi gắm, điều khó hơn nữa là nghề thêu đều do mẹ truyền con nối chứ không có sách vở nào dạy.


 Trang phục Dao Thanh Y thường phục gồm có mũ, khăn đội đầu, áo dài, yếm, dây lưng, quần ngắn ngang đầu gối và xà cạp.

   Mũ: Phụ nữ Dao Thanh Y để tóc dài, rẽ ngôi giữa, vấn tóc xung quanh đầu rồi đội một cái mũ hình chóp cụt trông giống như một cái đấu nhỏ, đáy dưới của hình chóp có đường kính 14cm, đáy trên 12cm và chiều cao từ 5cm - 10cm, đỉnh mũ được gắn một ngôi sao nhiều cánh bằng bạc có đường kính từ 5cm - 6cm. Ngôi sao này được chạm khắc khá công phu và tâm của ngôi sao là một núm lồi. Người ta còn gắn nhiều mảnh bạc lên chiếc mũ hình tròn có đường kính 2cm trông giống như cái vỏ hến tạo thành hai lớp song song chạy quanh thành mũ.

Khăn đội đầu: Điểm nhấn quan trọng trong bộ trang phục của phụ nữ Dao chính là chiếc khăn đội trên mũ ( khăn vẫn tóc ) khăn vuông bằng vải trắng mỗi chiều từ 30cm đến 40cm. Trừ phần diềm còn lại toàn bộ mặt khăn được thêu kín các họa tiết trang trí bằng chỉ màu đỏ và đen. Ở giửa mặt khăn trong một khung vuông có một hình sao tám cánh. Xung quanh hình sao là các họa tiết hình chữ thập ngoặc người Dao Thanh Y gọi đó là hình các con rồng và hơn 20 chữ Nho như: “sinh - bảo - mệnh - trường”, “thọ - tỉ - nam – sơn”... ( chang, sẻng, pấu, meng, pẻ, pú, schấu, săng sláu, đai, nhầu, long, ánh, sẻt, sóm, dỏm, giang, man, ninh, quang..) tùy theo từng khăn và bốn góc của chiếc khăn vuông mỗi góc đều có ba hình thêu gọi là con cua bé. Hai góc khăn đối nhau đính nhiều chuỗi hạt cườm, đầu mỗi chuỗi là các chùm tua bằng chỉ đỏ hoặc hồng có gắn thêm các sợi dây kim tuyến để tạo thêm vẻ đẹp. Người ta đội mũ rồi mới đội khăn và khăn có tác dụng giữ chắc mũ trên đầu. 


  Áo dài: Phụ nữ Dao Thanh Y thường xuyên mặc áo dài, Áo màu chàm hoặc đen. Cửa tay áo đáp vải đỏ và xanh nước biển nhưng ngày nay nhiều người đã thay bằng vải hoa. Áo không khoét cổ, nẹp cổ liền với nẹp ngực nhưng đã có sự phân biệt rõ ứng giữa cổ áo và nẹp ngực, nẹp cổ được thêu nhiều họa tiết đặc biệt tạo ra 29 hoặc 31 chữ Vạn.

  Thân áo: Thân bên phải ngắn hơn thân bên trái, cả hai thân này đều ngắn hơn thân sau. Khi mặc áo, người ta vắt thân bên trái qua thân bên phải rồi buộc dây lưng ra bên ngoài.

  Áo người Dao có hai tà và phần cầu kỳ nhất để làm nên sự độc đáo trong chiếc áo của phụ nữ Dao chính là những nét hoa văn được thêu ở phần cổ áo. Người Dao cho rằng, nhìn áo để biết người phụ nữ khéo hay không, nhìn áo để biết người phụ nữ có đảm đang hay không chính là nhìn vào cách thêu hoa văn ở phần cổ áo mà người phụ nữ mặc.

  Bộ trang phục nữ của người Dao Thanh Y tuy khác ít các họa tiết thêu so với các nhóm Dao khác nhưng các họa tiết không hề kém phần phong phú như hình cỏ cây, hoa lá hay bất kỳ vật dụng nào mà người dân nơi đây cảm thấy gần gũi trong sinh hoạt hàng ngày. Cùng ý tưởng đó nhưng trên mỗi bộ trang phục, hoa văn không giống nhau bởi mỗi người có một cách làm và học hỏi từ các mẫu khác nhau.

  Yếm: hình vuông, mỗi chiều 30cm, bằng vải màu chàm. Nửa trên của yếm đáp vải đỏ, đen và mảnh hoa văn đã được thêu sẵn.

  Dây lưng: dệt bằng chỉ màu đỏ pha trắng và đen, dài 180cm - 200cm, rộng 5cm - 7cm, hai đầu có tua dài.

  Quần: Quần của phụ nữ Dao được thêu ở đoạn cuối ống giống với phần thêu trên áo để tạo ra một bộ trang phục mang vẻ đẹp thẩm mỹ và rất tinh tế. Kiểu quần thường mặc là quần ngắn chỉ dài tới ngang đùi ống hơi hẹp, dưới gấu không thêu, đũng rộng có thể cử động thoải mái trong mọi tư thế lao động.

Xà cạp (phần vải quấn chân): làm bằng vài màu chàm không có hoa văn trang trí. Xà cạp là một đoạn vải dài 135cm rộng 16cm. Dây buộc xà cạp dệt bằng chỉ có các họa tiết đơn giản, dài 40cm, rộng 2cm. Mỗi đầu dây được đính các chuỗi hạt cườm và có tua dài.

Lễ phục - Y phục cô dâu:  Cô dâu Dao Thanh y ăn vận quần áo như ngày thường, chỉ khác là đeo thêm ở cổ nhiều cái khăn vuông thêu hoa văn bằng chỉ màu đỏ và đen. Ngoài ra cô dâu còn phải quấn thêm một chiếc dây lưng đặc biệt, ngày thường không ai dùng. Dây lưng bằng vải trắng thêu những ô vuông trong có chữ thập ngoặc và một số chữ Hán. Ngoài trang phục chính, người phụ nữ Dao còn đeo các đồ trang sức làm cho bộ trang phục của mình thêm sang trọng như: vòng cổ, nhẫn, các đồ trang sức bằng bạc.

Để tiện xem các video về văn hóa dân tộc Dao Việt Nam tại đây: 

https://youtu.be/MZvvifKvwlU

Youtube Yao Việt Tv:

https://www.youtube.com/channel/UC1nupK5wYMImWl4Q9pFf-ag?view_as=subscriber

Thành Lương

Thứ Hai, 16 tháng 3, 2020

QUÁ SƠN BẢNG VĂN

ĐỂ CHO MỌI NGƯỜI DAO CÙNG BIẾT
QUÁ SƠN BẢNG
Người Dao đối lại người Việt
Người Dao đối lại người Việt
By Le Minh Khai
Người dịch: Hoa Quốc Văn
Vậy là người Yao (hay Dao trong tiếng Việt) vẫn lưu giữ một câu chuyện về bản thân họ, câu chuyện này họ lấy từ các nguồn tư liệu Trung Hoa cổ xưa. Câu chuyện này khẳng định rằng họ là hậu duệ của một nhân-cẩu có tên là Panhu (Bàn Hồ) và được ghi chép trong những văn bản được đặt tên hoặc là “Quy định của Hoàng đế Bình” (Bình hoàng khoán điệp 評皇券牒) hoặc là “Giấy phép để qua các ngọn núi” (Quá sơn bảng 過山榜).
Trong bài viết trước tôi đã chỉ ra rằng có những sự tương đồng giữa cấu trúc của câu chuyện này với cấu trúc của Hồng Bàng thị truyện. Trong khi hai câu chuyện này giống nhau ở chỗ chúng đều được kiến tạo từ những thông tin trong các văn bản hiện tồn [lúc bấy giờ] và cả hai đều có chung một tuyến truyện, thì cái cách mà hai câu chuyện này đã được đọc trên phương diện lịch sử về quá khứ cách đây ít thế kỉ là rất khác nhau.
Bình hoàng khoán điệp và Quá sơn bảng được ghi chép trên những cuộn giấy dài trong đó cũng bao gồm những bức hoạ về các nhân vật được đề cập trong câu chuyện và những vết tích của cái được tuyên bố là ấn triện của hoàng đế.
Những bức hoạ về các nhân vật giống hệt những hình ảnh mà chúng ta thấy trong các hình hoạ của Đạo giáo. Điều này không có gì ngạc nhiên khi chúng ta biết rằng người Dao đã kế thừa những tín ngưỡng và nghi lễ của Đạo giáo. Vì vậy, trong cuốn sách về người Dao và Đạo giáo của mình (A History of Daoism and the Yao People of South China [Lịch sử về Đạo giáo và người Dao ở Nam Trung Hoa]), Eli Albert đã cho rằng, những văn bản của người Dao này dường như đóng vai trò như những đối tượng mang tính nghi lễ vậy.
yao-image1
Đặc biệt hơn, điều mà Albert và các học giả khác khẳng định là: những văn bản này có vẻ được trình bày trong nhiều lễ tiết khác nhau để cho người dân (không biết chữ) xem.
Trong khi đó, nhà nhân chủng học Peter Kandre đã tìm thấy ở thập kỉ 1970s hiện tượng câu chuyện về “hậu duệ của Bàn Hồ” được “hát” với tư cách một phần của hôn lễ trong những cộng đồng người Dao ở miền Bắc Thái Lan lúc bấy giờ. Ông cũng ghi lại thông tin về các lễ hội phức tạp dành cho Hoàng đế Bình (vị hoàng đế đã gả con gái cho Bàn Hồ) trong đó bao gồm cả việc hiền tế một con lợn để vinh danh hoàng đế,v.v..
Những tài liệu Dao này vì vậy hết sức “sống động”. Chúng được “diễn xướng” trong các nghi lễ có ý nghĩa sống còn với các cộng đồng người Dao ở bất cứ nơi đâu họ đến.
Trái lại, văn bản chứa Hồng Bàng thị truyện là Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, có vẻ không hề được “đọc” bằng bất kì phương thức nào tương tự như thế.
Vì vậy làm thế nào chúng ta có thể giải thích một thực tế là những văn bản này vốn giống nhau ở sự kiến tạo và nội dung nhưng được đọc bằng những cách thức khác nhau như thế trong các xã hội tương ứng của chúng. Tại sao câu chuyện về Bàn Hồ là một nhân tố “sống động” của văn hoá Dao bất kể họ sống ở đâu, trong khi Hồng Bàng thị truyện không có vẻ như đóng một vai trò như thế trong [xã hội] người Việt. Điều này nói gì với chúng ta về hai xã hội và về lịch sử được cho là cổ xưa của họ?
Tôi chưa bao giờ thấy ai so sánh người Dao với người Việt, nhưng ai đó nên làm điều này.
Người Yao (hay Dao trong tiếng Việt) là một nhóm người sống ở vùng núi ở một khu vực từ Hồ Nam đến Tây Bắc Việt Nam. Cũng như người Việt, người Dao kiến tạo cho mình một lịch sử khá sớm dựa trên những tư liệu được ghi chép lần đầu bởi các tác giả Trung Hoa. Người Dao ghi chép những thông tin này trong các văn bản được biết lần lượt là “Quy định của Hoàng đế Bình” (Bình hoàng khoán điệp 評皇券牒) hoặc “Giấy phép để qua các ngọn núi” (Quá sơn bảng 過山榜).
charter4
Thông tin trong những văn bản này khẳng định rằng người Dao là hậu duệ của một ông tổ nhân cẩu có tên là Panhu (Bàn Hồ 槃瓠). Người Dao không sáng tạo ra câu chuyện này. Thay vào đó, các tác giả Trung Hoa đã tạo ra, và chúng ta có thể thấy một phiên bản của câu chuyện này trong sách Hậu Hán thư 後漢書của Phạm Việp. Trong công trình này, Phạm Việp đã kể một câu chuyện trong đó ông ta nói rằng tất cả những người “man phương Nam” (Nam man 南蠻) là hậu duệ của Bàn Hồ.
Trong câu chuyện này, Bàn Hồ là một [nhân vật nửa người nửa] chó, đã giúp đỡ Đế Cốc của tộc Cao Tân (Cao Tân thị) bằng cách giết chết địch thủ của Đế Cốc. Rồi Đế Cốc gả con gái của mình cho Bàn Hồ. Đế Cốc sau đó hối hận và cố gắng đưa con gái trở về, nhưng việc làm của ông đã bị ngăn cản bởi thời tiết xấu xuất hiện một cách thần diệu.
Vợ Bàn Hồ sinh ra 6 đứa con trai và 6 đứa con gái. Chúng lấy nhau và sinh con, và số người [trong gia đình này] tăng lên. Những người này sau đó sống ở những ngọn núi và tự cai quản [vùng đất của mình].
Sách Hậu Hán thư sau đó nói thế này về sự tổ chức xã hội của họ: “Có những tù trưởng, tất cả họ đều nhận được ấn tín và các dây thao của hoàng đế dành cho lễ tấn phong. Họ đội mũ làm bằng da rái cá. Họ gọi tù trưởng của họ là Tinh phu 精夫, và gọi nhau là Áng đồ 姎徒”.
Câu chuyện này được viết bởi Phạm Việp ở thế kỉ V về các tộc “Nam man”, nhưng gần 1000 năm sau, người Dao mới dùng câu chuyện này để nói về họ. Sự khác biệt duy nhất là: họ thay đổi tên vị hoàng đế từ Đế Cốc thành Đế Bình, một hoàng đế mà họ sáng tạo ra.
Đối với bất kì ai đã đọc Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, những sự tương đồng nhất định ở đây hẳn là rõ ràng. Trong câu chuyện của người Dao, một hoàng đế Trung Hoa đã gả cháu gái cho một nhân cẩu, trong khi, trong Hồng Bàng thị truyện ở Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, người vợ của một hoàng đế Trung Hoa đã bị bắt đi bởi một Long quân.
Trong cả hai trường hợp này, lần lượt các vị hoàng đế [Trung Hoa] đã đối mặt với sự cản trở siêu nhiên khi họ cố giành lại những người phụ nữ ấy. Trong các cuộc hôn nhân mới của mình, cả hai người phụ nữ ấy đều sinh nhiều con và những người con được chia đều thành 2 nhóm.
Cuối cùng, trong cả hai truyện này, những khái niệm “bản địa” đã được sử dụng cho tên của những chức quan. Lĩnh Nam chích quái liệt truyện khẳng định rằng “[Vua Hùng] đã chia nhóm các anh em trai [50 người theo mẹ và 50 người theo cha] để cai trị [vùng đất này]. Ông đã đặt các thuộc cấp là những quan văn và tướng lĩnh. Quan văn được gọi là Lạc hầu. Quan võ được gọi là Lạc tướng. Hoàng tử được gọi là Quan lang, và con gái [vua] được gọi là Mỵ nương. Các quan lại được gọi là Bồ chính”.
Thật thú vị ở cái cách Lĩnh Nam chích quái đã phản chiếu câu chuyện sớm hơn về Bàn Hồ và hậu duệ của ông.
[Về một bản dịch câu chuyện của Bàn Hồ khi nó xuất hiện trong sách Hậu Hán thư, xem trang 5-6 của công trình này]